Dưới đây là một số chia sẻ về đĩa cho anh em chưa hiểu rõ!
Trại cá dĩa chúng tôi với quay mô hơn 1000 hồ cá và hơn 20 năm kinh nghiệm trong nghề cá đĩa, cung cấp sẵn hơn 30 dòng các loại có luôn phiên,đủ cung cấp về số lượng và chất lượng cũng như kinh nghiệm chăm sóc cá để anh em có một hồ cá khỏe đẹp nhiều màu sắc.
Trại luôn nhiệt tình trả lời và tư vấn thắc mắc của anh em.Anh em cứ gọi điện hoặc kết bạn zalo nếu có thắc mắc.
1/ Nguồn gốc cá đĩa
Loài cichlid quyến rũ này được sinh ra từ hệ thống sông Amazon, một trong những khu vực sinh sống lớn và ổn định nhất trên hành tinh chúng ta. Đầu tiên, cái thú nuôi loài này xuất hiện vào đầu những năm 1930 và cà dĩa được xem như một trong những loài cá nhiệt đới nước ngọt đắt đỏ và đòi hỏi cao nhất.
- Sông Amazon với những nhánh rộng lớn bao phủ hơn 2,5 triệu dặm vuông, tức 30% lục địa Nam Mỹ. Xét về lượng nước, không con sông nào có sức chứa bằng nó. Suốt mùa mưa, Amazon mỗi giây đổ 3-6 triệu khối nước vào Đại Tây Dương và góp 20% lượng nước ngọt chảy vào các đại dương trên toàn thế giới.
- Cơ bản có 3 loại nước trên con sông Amazon này. Nước vàng mùn ở thượng nguồn sông, nước “đen” gần Rio Negro ở trung lưu và vàng xanh hay còn gọi là “nước sạch” ở hạ lưu. Các loại nước khác nhau đó đã tạo nên nhiều màu sắc đa dạng cho cá dĩa hoang dã.
Phần chính của sông Amazon thì quá khắc nghiệt, lại chứa nhiều bùn. Ở những nhánh sông sạch hơn, ta có thể quan sát được nhiều thước nước sâu bên dưới nhưng hầu hết ở hệ thống sông nhiều bùn như thế này ánh sáng không chiếu được độ sâu ngoài 3 thước.
- Cá dĩa hoang dã phần lớn được tìm thấy ở thượng nguồn Rio Negro, Rio Madiera và những hồ bao quanh do nước lũ tạo nên. Nước ở đây có lượng chất khoáng rất thấp, chính vì vậy thường là “mềm” với độ pH chỉ trong khoảng từ 4,0 đến 7,0. Nhiệt độ nước khá ổn định cả ngày và đêm, chủ yếu ở mức trên 80 độ F (27 độ C) và dinh dưỡng nghèo nàn.
- Loài cá này được gọi là cá dĩa là vì hình dáng bên ngoài của chúng. Cá dĩa sống theo đàn len lỏi trong các thân cây hay rễ chìm trong nước gián tiếp đón lấy ánh nắng mặt trời. Thân hình tròn phẳng tiến hóa, tạo điều kiện cho cá dĩa ẩn nấp vào thực vật dưới nước và giúp chúng trượt qua cây cỏ dễ dàng.
- Cá dĩa thuộc họ Cichlid, gồm nhiều chủng loại và chủng loại chúng ta yêu thích nhất có tên Symphysodon với nghĩa tường minh là “loài sở hữu những chiếc răng ở giữa hàm”.
- Tiến sĩ Johann Jacob Heckel là người đầu tiên mô tả được con cá dĩa, Symphysodon discus heckel, vào năm 1840. Loại Heckel này khác hẳn những loại khác và ta dễ dàng nhận biết thông qua 9 sọc đứng trên thân. Sọc chạy dài ngay mắt, sọc thứ năm chính giữa và sọc ngay đuôi là hiện lên nổi bật nhất.
- Sọc giữa thân khá dày, rộng hơn hẳn các sọc còn lại và nó luôn xuất hiện ở loài cá dĩa Heckel. Quê hương loài này là khu vực Manaus (Rio Negro) ở miền Trung Braxin.
- Symphysodon aequifasciata aequifasciata, được biết đến nhiều hơn với cái tên Cá dĩa xanh lá cây, được mô tả bời Pellegrin vào năm 1904, là loài tiếp theo xuất hiện. Chúng được tìn thấy ở hồ Tefe và Peruvian Amazonia.
2/Đặc điểm
Quê hương của cá đĩa là những nhánh sông nhỏ thuộc sông Amazon (Nam Mỹ) là nơi có nhiều cá đẹp và lạ. Cá trưởng thành có kích thước từ 15cm đến 20cm, thân hình có dạng tròn như chiếc đĩa, rất dẹp, miệng nhỏ, mang nhỏ và sống hiền hòa theo bầy đàn trong tự nhiên.
Cá đĩa có thân hình trơn láng với màu nền thường là nâu đỏ (cá đĩa nâu), bông xanh (cá đĩa bông), xanh lam (cá đĩa lam), trắng bạch (cá đĩa bạch tạng, rất hiếm),…
Thức ăn của cá đĩa trong môi trường nuôi nhân tạo thường là trùn đỏ, trùn chỉ, bo bo, lăng quăng hay tim gan bò băm nhuyễn. Cá đĩa không kén ăn, nhưng tương đối khó nuôi vì cá chỉ sống mạnh khỏe ở một môi trường nước thật sạch, độ pH từ 5,5 đến 6,5 đến hơi chua, nước mềm và ở điều kiện nhiệt độ từ 28 đến 32 độ C. Người ta dựa vào những tiêu chuẩn này để làm bể nuôi cá đĩa cho thật phù hợp để cá sống mạnh khỏe.
3/Sinh sản
Giống cá này cho sinh sản trong điều kiện nhân tạo rất khó thành công. Cá sinh sản đã khó do giữ trứng rất kỹ, lại hay ăn trứng nếu như cảm thấy xung quanh nó nguy hiểm hay nhiều người qua lại, cá bột yếu ớt và hao hụt rất nhiều. Mỗi chu kỳ sinh sản mặc dù cá đĩa có thể đẻ khoảng 200 đến 400 trứng, nhưng khi đàn cá bột lớn cỡ 2cm thì chỉ còn lại 30 đến 40 con là điều bình thường nếu không muốn nói là đã đạt tiêu chuẩn cho một lứa đẻ của cá đĩa.
4/Cho cá bắt cặp
Giai đoạn bắt cặp xảy ra trong vòng 7-10 ngày. cặp cá sẽ tự tách ra một góc bể, dùng miệng làm sạch nơi sẽ sinh đẻ. Đôi cá này thường kề sát miệng, quẫy mạnh đuôi, đuổi bắt nhau, xua đuổi những con khác lại gần chúng. Tiếp đó chúng bơi sóng đôi, quấn quít bên nhau. Trước khi đẻ một vài ngày, cá có hiện tượng rùng mình, rung toàn thân, xếp vây lại, đôi lúc đứng yên tại chỗ, ít bắt mồi. Khi sinh, cá chúc đầu xuống 45 độ. Lúc này gai sinh dục lộ rõ, màu sắc rực rỡ hẳn lên. Cá cái đẻ trứng theo chiều dọc giá thể, từ dưới lên. Cá đực cũng theo lộ trình đó tiết tinh để thụ tinh cho trứng. Số trứng thường 70-80 đến 150, có khi hơn.
5/Phân biệt giới tính
Cá đực có hình dáng to, đầu hơi gù, vây bụng xệ, dưới bụng vùng giáp vây lõm vào trông rất rõ, hoạt động hung hăng hơn cá cái.
Cá cái thường nhỏ hơn cá đực, gai sinh dục lồi ra ngắn (#3mm) , chia 2 thùy nhọn và hơi cong về phía sau.
6/Quá trình sinh sản
Trứng được tưới tinh có màu trong suốt, trứng không thụ tinh có màu trắng đục, tấy gòn. Sau 24 giờ, trứng thụ tinh chuyển sang màu trắng xám. Ở 30 độ C trứng nở trong vòng 55-57 giờ. Trong lúc này cá bố và cá mẹ thay phiên nhau quạt nước cho trứng để có đủ độ thoáng khí. Tỉ lệ trứng nở từ 60% đến 80%, nếu cá đẻ lứa đầu tiên thì 70% số trứng đó sẽ không nở và bị cá cha mẹ ăn hết vì cá đực hoặc cái chưa thuần thục kỹ năng sinh sản, nên chờ lứa tiếp theo.
7/Chăm sóc cá bột
Khi cá mới nở sẽ sống nhờ túi noãn và bám trên giá đẻ, tự tiêu dùng năng lượng của túi noãn để sống sót, nếu cá bột rơi xuống, cá cha hoặc mẹ sẽ dùng miệng ngậm lấy và đặt lại chỗ cũ.
Sau 60 giờ, cá bột có thể bơi lội thành đàn quanh cá bố mẹ, sống nhờ ăn chất nhờn tiết ra từ mình cá bố mẹ trong vòng 12-15 ngày. Sau đó, cá bột bắt đầu ăn được các sinh vật nhỏ trong nước. Khoảng 18 ngày, cá bột có thể tạm gọi là cá con và ăn được thức ăn nhân tạo. Sau 21 ngày chúng có thể tự đi tìm thức ăn.